BÍ MẬT ĐẰNG SAU NHỮNG THÀNH ĐẠT CỦA CON NGƯỜI TẠI MỘT VÙNG QUÊ HÀ TĨNH . 3
SUỐI GIẢI OAN
" HÔM NAY EM ĐI CHÙA HƯƠNG "
Các bạn , ai chưa một lần ghé thăm Hương tích ở Hà tĩnh , hãy cố tạo cho mình một chuyến. Cảnh Hương tích ở Hà tĩnh còn hoang sơ , đầy chất vẻ của Thiên nhiên , hầu như chưa biết tới ảnh hưởng của nghệ thuật DIVU.( Dịch vụ ) như ở Hà tây. Tuy nhiên , người viết cũng mong muốn rằng, đừng để những công trình bê tông , cốt sắt và những dịch vụ kiểu đó lan tới Hương tích Hà tĩnh , ngõ hầu giữ được một cảnh đẹp thuộc loại kỳ quan và giữ cho Long mạch Hà tĩnh được yên ổn. Người viết cũng rất mong muốn những người lãnh đạo tỉnh Hà tĩnh , biết đề ra một tầm nhìn chiến lược khi khai thác cảnh đẹp của Hương tích, đừng để phá hỏng một cảnh đẹp kỳ thú của Thiên nhiên và một Long mạch quan trọng của Đất nước. Mong rằng Hương tích của Hà tĩnh mãi mãi là một cảnh đẹp thiên nhiên đến say lòng người.
Trên đường ra Bắc , dienbatn muốn cùng các bạn ghé thăm một nơi có Di tích quan trọng nữa của Hà tĩnh , đó là Di tích Đền Củi - Nơi thờ ông Hoàng Mười.
ĐỀN THÁNH MẪU LINH TỪ HAY ĐỀN ÔNG HOÀNG MƯỜI ( ĐỀN CỦI )
Từ Thành phố Vinh theo đường Quốc lộ 1A , theo hướng Nam khoảng 10 Km , hoặc từ Thị xã Hà Tĩnh , theo hướng Bắc khoảng 40 Km là đến Xã Xuân Hồng- Huyên Nghi xuân - Tỉnh Hà tĩnh. Nơi đây , dãy Hồng lĩnh như một con Rồng đang vươn mình tới sông , cúi đầu xuống uống nước Lam giang. Sông Lam như đang dịu dàng , ôm ấp , vỗ về Hồng Lĩnh để tạo thành một vùng non nước hữu tình.
" Dãy núi dồn nhau xuống phía Đông ,
Để rơi một ngọn cạnh bờ sông ,
Chân lèn sâu cạn , triều lên xuống ,
Mõm núi dày , thưa có chéo chồng.
Núi lặng , mõ canh , chòi gác vắng ,
Tai không rửa bẩn nước nguồn trong ,
Lướt bè trên Nguyệt , đêm qua lạnh ,
Vẽ lại Ngân hà cảnh đẹp chung. "
Thơ BÙI DƯƠNG LỊCH.
VÕ HỒNG HUY dịch.Những ngọn núi dồn nhau xuống phía Đông ấy là núi Ngũ Mã , còn hòn rơi cạnh bờ sông là Núi Khu độc ( Cô độc ). Nơi đây đã trở thành một trong Nghi xuân bát cảnh mà người đời vẫn gọi là Cô Độc Lâm Lưu, có lẽ không phải vì sự hùng vĩ của núi cao , sông rộng và sự hòa sắc , giao duyên của Sơn - Thủy hữu tình mà phải chăng còn bởi ngôi Đền thiêng thờ Thánh Mẫu Linh từ ( Đền Củi ). Ngôi Đền tọa lạc tại mái Bắc núi Khu độc , mặt ngoảnh ra sông , hướng về phương Bắc , dựa lưng vào núi . Các tòa điện cao dần theo thế núi uy nghiêm , đường bệ, trong ngút ngàn màu xanh của rừng cây cổ thụ , ngắm nhìn mênh mông sông nước Lam giang và tạo ra một không gian kiến trúc vừa huyền ảo vừa khoáng đạt , gần gũi.
Từ đường Quốc lộ 1A, men theo chân của Ngũ Mã sơn khoảng 300m , rồi lại men theo mép Lam giang vài chục mét nữa là đến khu Đền thiêng. Đền Củi có tên chữ là Khu độc Linh từ , được lập vào cuối thời Lê. Đền đã trải qua vài lần tôn tạo , nhưng vẫn giữ lại được những nét xưa trang nghiêm , thần bí và hài hòa với khung cảnh Thiên nhiên và tâm thế của dân gian..
ĐỀN CỦI : MỘT SỐ HÌNH ẢNH .
Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh mẫu toàn năng , trông coi miền rừng núi , địa bàn sinh sống chính của các dân tộc người thiểu số. Truyền thuyết kể lại rằng : Vào thời Hùng Định Vương , một trong số 18 Thế Đại Vương triều , Hoàng hậu mang thai mãi mà không đẻ. Lúc đầu , mọi người rất lo sợ , nhưng về sau rồi cũng thấy quen dần. Vào năm thứ ba , một hôm , Hoàng hậu đi chơi trong rừng , bất ngờ cơn đau đẻ ập đến , những người theo hầu lúng túng không biết lo liệu làm sao , còn Hoàng hậu thì đau quá chỉ biết ôm chặt lấy thân cây quế . Cuối cùng thì Hoàng hậu cũng sinh ra một cô con gái , nhưng vì kiệt sức , Hoàng hậu An nương qua đời, để lại cho Vua một cô con gái yêu , đặt tên là Mỵ nương Quế Hoa. Lớn lên , Mỵ Nương Quế Hoa vừa xinh đẹp , vừa ngoan ngoãn , tới tuổi cập kê mà vẫn không màng tới chuyện chồng con , chỉ luôn nhắc đến người mẹ yêu quý đã sinh ra mình.
Sau khi biết rõ ngọn ngành , Công chúa quyết chí vào rừng tìm mẹ, không từ những gian lao nguy hiểm. Công chúa đã chứng kiến những cảnh cơ cực đói nghèo của dân chúng trong những bản làng xác xơ , nơi Công chúa đi qua. Những lúc như vậy , Công chúa Mỵ nương trăn trở , tìm cách để giúp những người dân lành , lam lũ , cực khổ. Một đêm , giữa rừng núi âm u , nàng cảm thấy hơi âm của mẹ và thảng thốt kêu lên " Mẹ ơi , Mẹ ơi ". Như đồng cảm với nỗi lòng của nàng , một ông Tiên hiện ra , trao cho nàng phép thần thông , có thể rời non lấp biển , cứi giúp dân lành , học phép trường sinh . Có được sách Tiên , Công chúa cùng với 12 Thị nữ ra sức học phép Thần thông. Chẳng bao lâu , họ đã biết cách rời núi khai sông , đưa nước về tưới cho ruộng đồng tươi tốt , mang lại âm no hạnh phúc cho dân làng .Sau khi có được cuộc sống âm no , bản làng trù phú , một hôm , có một đám mây ngũ sắc hạ xuống đón Mỵ nương và 12 Thị nữ bay lên Trời. Từ đó nhân dân lập đền thờ tôn vinh Mỵ nương là bà chúa Thượng ngàn , hàng năm mở hội vào mồng một tháng tư âm lịch để ghi nhớ công ơn của Thánh Mẫu.
Lại có truyền thuyết kể rằng : Công chúa La bình , con của Sơn tinh và Mỵ nương , cháu ngoại của Vua Hùng , là một cô gái Tuyệt sắc , có nhiều tài nghệ , thường đi chu du khắp rừng núi hang động. Đi tới đâu , nàng cũng quyến luyến với cảnh vật , làm bạn với nhiều cây cỏ , chim thú. Các vị Sơn Thần đều rất quý mến Nàng và được Nàng bảo ban , giúp đỡ . Dân trong vùng vì thế cũng được yên ổn , âm no. Hay tin đó Ngọc Hoàng Thượng Đế rất khen ngợi Tản viên và La Bình , phong cho nàng là bà Chúa Thượng ngàn ( Thượng ngàn Công chúa ) cai quản 81 cửa Rừng ở cõi Nam Giao.
TAM QUAN ĐỀN CỦI
TOÀN CẢNH ĐỀN CỦI
CUNG THỜ CHƯ PHÂT.
CUNG THỜ HOÀNG MƯỜI
CUNG THỜ NGŨ VỊ QUAN LỚN.
CUNG THỜ NHỊ VỊ CHẦU BÀ.
CUNG THỜ TAM PHỦ.
CUNG THỜ THÁNH MẪU LINH TỪ
CUNG THỜ TRẦN TRIỀU.
Mẫu Thoải là vị Thần cai quản vùng sông nước , xuất thân từ dòng dõi Long Vương. Sự tích kể lại rằng : Thuở Trời Đất mới mở mang , rừng núi sông hồ hãn còn hoang vu , Kinh Dương Vương thường đi du hí khắp nơi. Một hôm đến vùng sông nước , đầm lày , gặp một người con gái nhan sắc tuyệt trần , tự xưng là con gái Long Vương ở Động Đình Hồ. Kinh Dương Vương đem lòng yêu mến và lấy làm vợ. Sau này sinh ra Sùng Lãm - Chính là Lạc Long Quân - Thủy tổ bố Rồng của người Lạc Việt. Người con gái xinh đẹp đó sau này được suy tôn là Mẫu Thoải.
Ở xứ Nghệ , truyền thuyết kể lại rằng : Thủa ấy , Kinh Dương Vương đóng đô ở Ngàn Hống ( Núi Hồng Lĩnh ) và gặp người con gái ở sông Thanh Long ( Tên cổ của sông Lam ).
Lại có truyền thuyết nói rằng , Mẫu Thoải là vợ Vua Thủy tề , được Thượng Đế phong là Nhữ nương Nam nữ Nam hải Đại Vương , coi việc sông , biển , làm mưa , chống lũ,lụt.
Đó là sự tích của Tam tòa Thánh Mẫu.
Cũng ở Điện này , bên phải Tam phủ còn có cung thờ của Nhị Vị chầu bà - Chầu Thượng Ngàn và chầu Thoải. Đây là điểm khác biệt so với các Đền thờ Mẫu khác ở các nơi , chỉ có Nhị Vị chầu Bà , chứ không có Tứ vị chầu Bà. Duy chỉ có Đền ông Hoàng Mười là có cung thờ riêng.
Chầu Thượng Ngàn - Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn , vị Thánh thống soái trong hàng các chầu , cai quản vùng núi non , sơn cước.
" Vốn dòng Công Chúa Thiên thai ,
Giáng về Hạ giới quản cai Thượng ngàn ,
Quản cai các lũng cùng làng.
Sơn tinh , cầm thú , hổ lang cúi đầu."
Tương truyền Bà là con gái một gia đình người Mán ở Động Cuông - Tỉnh YÊN BÁI. Bà được sinh ra khi bố mẹ đã ngoài 50 tuổi. Từ nhỏ Bà chăm chỉ làm việc thiện , không lấy chồng. Sau khi Bà mất , Bà hiể linh cứu giúp dân lành, nên được nhiều nơi lập Đền thờ cúng , không ai ngồi dồng mà Bà không giáng Khi Bà giáng , Bà mặc sắc phục màu xanh đặc trưng cho Nhạc phủ.
Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải - Vị Thánh có dáng vẻ u buồn , mặc y phục và khăn choàng màu trắng.
Phía dưới cung thờ Tam Phủ là cung thờ Ngũ vị Quan lớn ( Ngũ vị Tôn Ông ) , từ Quan Đệ Nhất tới Quan Đệ Ngũ.Trong Ngũ vị Quan lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan Đệ Nhị xuất thân từ Thiên Thần. Quan Đệ Nhất vâng lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống Trần để cứu giúp dân lành khỏi sự quấy phá của Tà Quan :
" Thỉnh mời Đệ Nhất Thượng Thiên
Lai tâm chứng giám đền chung oai hùng,
Kiên trì lục trí Thần thông ,
Quan các Tam giới phi phong phép màu
....
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra
Tôn Quan lĩnh chỉ xuống qua phàm Trần.
Trước là mở Phủ , khai Đàn ,
Sau là thu tróc Tà Quan phen này."
( Văn chầu Quan Đệ Nhất ).
Quan Đệ Nhị cũng là Thiên Thần xuống Trần gian trấn giữ Thượng ngàn.
" Thượng ngàn giám sát quản cai ,
Thông chi Thiên - Địa Khâm sai Đại Thần.
Phép màu ra võ đằng vân ,
Trừ Tà sát Quỷ , cứu dân phen này "
( Văn chầu Đệ Nhị Quan ).
Ở cung thờ này có đôi câu đối của Tiến sĩ Hoàng Kiêm bái phụng như sau :
" Biến hóa vô nghê Thiên bổ lục kỳ tiên tích cổ.
Linh thanh hữu hách hồng phong cửu thập Thánh từ cao "
Nghĩa là :
"Biến hóa không màu dấu Tiên xưa nơi Thiên bổ lục kỳ.
Linh thiêng hiển hách đền Thánh ngôi cao trên chín chục đỉnh núi Hồng " Ở cung thờ này còn có hai bức hoành phi : Nữ trung anh kiệt và Khu Độc Linh Từ ( Các sách Địa chí viết về Nghi xuân đều không chép rõ về tên chữ của Đền. Ở núi Cô Độc ( Khu Độc ) , sát cạnh Đền Thánh Mẫu cũng không có ngôi Đền nào > Vậy có lẽ tên chữ của ngôi Đền này là Khu Độc Linh Từ.
Dưới cung Ngũ Vị Quan Lớn là hàng các Ông Hoàng , được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười.
Tương truyền , cũng như tích các Quan , các Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình.Tuy nhiên theo khuynh hướng Địa phương hóa , thì các ông Hoàng đều được gắn với một nhân vật nào đó ở cõi Nhân gian. Những Danh Tướng có công dẹp giặc , những người khai sáng , mở mang bờ cỡi cho Đất nước.Tương truyền Ông Hoành Đệ Nhất là danh Tướng của Lê Lợi. Ông Hoàng Đội - Hoàng Đôi?? ) - Đệ Nhị lại có những gốc tích khác nhau : Ông Đội ở Cẩm Phả là người Mán có công chống giặc , bảo vệ dân lành. Còn Ông Hoàng Đôi ở xứ Thanh lại là Quan Triệu Tường , người có công mở mang đất đai , giúp dân sinh sống. Ông Hoàng Bơ ( Hoàng Ba ) , có công phò Vua đánh giặc. Ông Hoàng Lục tức là Tướng Trần Lựu , có công chống giặc Minh. Ông Hoàng Bảy là viên Quan Triều đình trấn giữ vùng Lào cai - Yên Bái. Ông Hoàng Bàt là theo tâm thức nhân dân vùng Hà tĩnh - Nghệ an là hiện thân của Lê Khôi (? - 1446 ) vị Tướng của Nghĩa quân Lam sơn , gọi Lê Lợi bằng chú , từng có nhiệu công chống giặc Minh xâm lược.Sau chiến thắng , làm Quan trải qua ba đời Vua Lê là Lê Thái Tổ , Thái Tông và Nhân Tông., làm đến chức Khâm sai Tiết chế Thủy , lục chư dinh hộ vệ Thượng Tướng quân. Ông từng trông coi Tây Đạo , Thuận hóa. Từ 1943 - 1946 trấn giữ Nghệ an và Hà tĩnh. Ông mất vào ngày 3/5/ Bính Dần ( 1946 ) , sau khi chiến thắng quân Chiêm Thành trở về. Ông được truy tặng Nhập Nội Hành khiển , Thái úy Tán Quốc Công. Lăng mộ của ông được táng tại ngọn Long ngâm , núi Nam Giới - Cửa Sót - Thạch hà - Hà tĩnh.. Ông được xây Đền thờ và làm lễ Quốc tế ; sau đó lại được tấn phong là Uy mục Đại Vương và năm 1487 lại được phong là Chiêu Trưng Đại Vương.
Có chuyện kể rằng : Ông Hoàng Mười là một Tướng tài của nhà Lê ( Lê Khôi??). Ông được nhà Vua tin yêu và giao Thống soái đạo quân trấn thủ Hoan châu. Ông vừa có công dẹp giặc , vừa có công chăm sóc , vỗ về dân chúng làm ăn , khai mở lưu thông buôn bán với mọi miền. Nhờ vậy mà đời sống dân tình ngày càng thêm no ấm , khá giả. Một năm kia , giặc ngoại bang tràn vào , Ông đã xông pha trận tiền , đốc thúc binh lính dẹp tan giặc , giữ yên bờ cõi. Khi thắng giặc trở về thì một trận cuồng phong ập vào nhà cửa của dân chúng đổ nát , hư hỏng nhiều vô số kể Thương dân , ông cùng binh sĩ lên ngàn chặt tre , đốn gỗ đưa về giúp dân. Một lần không may , khi bè xuôi về đến chân Ngàn Hống ( Hồng Lĩnh ). ở núi Ngũ Mã thì cuồng phong lại ập đến làm vỡ bè. Ông gặp nạn. Quân sĩ và dân làng chưa kịp mai táng thì mối đã đùn lên đắp thành mộ. Mộ mỗi ngày một to lên trông thấy. Cảm phục và biết ơn Ông , dân trong vùng đã lập Đền thờ ông ở núi Ngũ Mã. Thác rồi , xong Ông vẫn Linh thiêng , thường hiển Thánh cứu giúp muôn dân.
Cũng trên đất xứ Nghệ , nhưng Ông Hoàng Mười còn được nhân dân đồng nhất với những nhân vật Lịch sử , nổi tiếng , gắn bó với vùng quê này như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang , con trai thứ 8 của Lý Thái Tổ , từng làm Tri Châu Nghê an , có rất nhiều công lao giữ gìn bờ cõi , chăm sóc nhân dân.
Là Thánh Thần , dù là hiện thân của Chiêu Trưng Đại Vương hay Uy Minh Vương , nhưng Ông Hoàng Mười vẫn rất gần gũi , gắn bó và có cái gì đó phù hợp với tâm lý và phong cách xứ Nghệ. Đó là con người có chí khí nam nhi , anh hùng ngang dọc , văn võ toàn tài , có trí , có Dũng.
LẠM BÀN : Hiện nay theo dienbatn được biết , có ba nơi được coi là Đền ông Hoàng Mười : Hai ở Hà tĩnh và một ở tại Nghệ an. Ở Hà tĩnh chủ yếu là Đền Củi - Tại Khu Đôc sơn. Đền này có từ lâu đời. Một Đền thờ Ông Hoàng Mười nữa mới được xây bên bờ sông Lam ở phía Nghệ an. Có lẽ sau khi tách tỉnh : Hà tĩnh - Nghệ an ( Thay vì Nghệ tĩnh ) mà mỗi tỉnh phải có một Đền thờ Ông Hoàng Mười cho công bằng??? Theo sự khảo sát của dienbatn thì cách Thị xả Hà tĩnh khoảng 4Km ( dienbatn quên mất tên ) , Ở ven bờ biển , hiện nay có một Đền thờ trương truyền của Ông Hoàng Mười cùng hơn chục vị quân sĩ khác . Khu vực này vẫn còn hơn chục cái mộ và một Đền thờ nhỏ nhưng rất Linh thiêng. Theo truyền lại thì đây mới là nơi Ông Hoàng Mười và một số quân sĩ khác bị đắm thuyền khi trời có bão.
Một việc nữa là hình thế của Long mạch tại Đền Củi. Hồng Lĩnh chín mươi chín ngọn như một con Rồng uốn lượn. Khi đến địa phận Đền Củi , hình dáng như một con Rồng đang cúi xuống uống nước sông Lam. Chỉ tiếc rằng con đường Quốc lộ 1A băng qua , tạo nên một nhát kiếm chém đứt đầu Rồng , cái đầu rơi ra chính là Khu Độc sơn , nơi có Đền Thánh Mẫu Linh từ. Có phải vì vậy mà Hà tĩnh nghèo hơn Nghê an , mặc dù núi sông hùng vĩ hơn , điều kiện thuận lợi hơn. Ngày nay Hà tĩnh so với Nghệ an thì quá nghèo - Tuy chỉ cách nhau có một con sông Lam??????
Tại Đền Củi - Hà tĩnh , nơi cung thờ Ông Hoàng Mười có hai bức Đại tự : MẪU ĐỨC CHIẾU ÁNH và HUYỀN TỪ BỐ CHỮNG . Ngoài ra còn có hai câu đối của Tiến sĩ Hoàng Đình Nguyên bái phụng :
Quá giá hóa tồn giả Thần vị liệt Nam bang tứ bất .
Quốc hữu từ gia hữu tự danh cao Thiên bản lục kỳ .
Có nghĩa là :
Cái đã qua là hóa , cái còn lại là Thần , nước Nam có bốn vị bất tử .
Nước có Đền , nhà có Miếu , Trời cao vốn có lục kỳ.
Ngoài ra ở đây còn có cung Chầu Mười - Tương truyền Chầu Mười gốc người Thổ , đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng , trấn ải phía Bắc nước ta .
" Gặp thời Thái Tổ khởi binh ,
Theo Vua giết giặc Liệu Thăng hàng đầu .
Vua sai trấn giữ các Châu ,
Khắp hòa xứ Lạng địa đầu giang sơn .
( Văn Chầu Mười ).
Khi giáng Đồng , Chầu Mười thường ăn mặc theo trang phục của người dân tộc thiểu số , nhạc Chầu Văn theo điệu Xá thương , mang đặc trưng của các dân tộc miền núi .
CUNG THỜ TRẦN TRIỀU : TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG .
Trần Hưng Đạo là một nhân vật lịch sử có thật thuộc thời Trần . Ông là người có công đầu trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược . Nhân dân Đại Việt tôn xưng là Thánh Trần ( ĐỨC THÁNH TRẦN ) .Trong tín ngưỡng Đạo Mẫu , Đức Thánh Trần thường được quy về dòng Long Vương - Bát Hải Đại Vương . Tại Đền Củi , Đức Thánh Trần được đặt riêng ra thành một Phủ - Phủ Trần Triều . Về hạng bậc , Ông được đồng nhất với Vua cha trong đối sánh với Thánh Mẫu . Ngày giỗ ( Cũng chính là ngày Lễ hội ) của Trần Triều đồng nhất với ngày giỗ Cha : Tháng Tám giổ Cha , cùng với Bát Hải Đại Vương .
Phủ Trần Triều ở Đền Củi hiện vẫn còn đôi câu đối của Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình - Tương truyền ông bái phụng vào Đền sau khi được giải oan , thoát khỏi tội chết :
Trinh hiếu nhất tâm Thánh huấn tuyên dương kim tự cổ .
Hoá sinh tam chuyển Thân linh hiển hách Bắc như Nam .
Mặt tiền hạ Điện ngôi Đền có hai tầng mái , trông bề thế , thâm nghiêm nhưng vẫn có những nét thanh thoát , uyển chuyển . Bức tường giữa hai mái có đề bốn chữ : THÁNH MẪU LINH TỪ.
Các bạn có thể tham khảo vài câu đối sau ở các hàng cột Hạ Điện :
Vạn cổ tinh thần .
Có nghĩa là :
Đức Miếu lưu đức .
Tinh thần muôn thủa .
Và : Mã lĩnh củng triều chung tú khí .
Xuân đài chiêm ngưỡng lạc đồng nhân .
Nghĩa là : Núi Mã quây chầu hung đúc nên khí đẹp .
Đài xuân chiêm ngưỡng mọi người vui .
Đền Củi nổi tiếng linh thiêng , hàng năm khách hành hương trong cả nước và Quốc tế đổ về đây vãn cảnh và hành lễ . Hàng năm , vào dịp giỗ Thánh Mẫu ( Ngày 3/3 và ngày 10/8 ) khách thập phương đổ về nhiều vô kể , bãi xe rất lớn cũng không chứa xuể , xe phải đậu thành hàng dài ngoài Quốc lô5 1A . Mọi người về đây hành lễ ( Hát Chầu Văn ) với một niềm tin sẽ được Thánh Mẫu ,các Ông Hoàng , Quan Lớn và Đức Thánh Trần phù hộ , độ trì cho ăn nên , làm ra phát tài , bốn mùa không hạn ách , tám tiết không nạn xâm .Thật là một chốn Bồng lai Thiên cổ .
ĐỊA TIÊN THÁNH MẪU VĂN
Bóng gương loan mẫu đơn một đoá,
Gió lay mành hương xạ thoảng đưa .
Có chầu Nguyệt điện Tiên xưa .
Lánh miền cõi tục phận ưa nam thành .
Kiếp giáng sinh vào nhà Lê thị .
Cải họ Trần dấu khí Thiên hương .
Vốn sinh có vẻ phi phương ,
Giá danh đòi một hoa Vương khôn bì .
Ngụ thai quê Phủ Dày , Thiên bản .
Phủ Nghĩa hưng là quán Sơn nam .
Trẻ thơ chưa biết duyên phàm
Đeo kinh còn vết để làm dấu thiêng .
Tuổi tới niên cài trâm , giắt lược ,
Kết duyên lành quê phước một nơi .
Gối chăn vừa mới quen hơi
Ai ngờ dưới Nguyệt sảy nơi tơ hồng .
Đạo vợ chồng còn đang thương nhớ ,
Bỗng hoa hài lại giở gót Tiên ,
Giờ Dần mồng Ba tháng Thìn ,
Đôi mươi mốt tuổi rẽ duyên Trần phàm .
Ấy ai làm chăn thương gối thảm ,
Kiếp hay nguyền lãnh đạm về đâu ?
Lương quân dạ rối đòi nao ,
Xuân huyên nào biết thảm sầu mấy cơn .
Rầy Thánh đã cung Tiên Nguyệt quế ,
Dễ xui lòng Trần thế xót xa ,
Có phen Tiên lại nhớ nhà ,
Bỗng thời Tiên ở đường xa ngự về .
Thăm bản quê hương huyên đất nước ,
Cửa nhà chồng sau trước mọi nơi .
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Đồi Ngang - Phố Cát là nơi duyên lành .
Ca tính tình , tiếng tơ , tiếng trúc .
Thương một người bạc Phúc dân ngây ,
Cho nên Tiên mới thử tay .
Dễ đâu mà lánh , khôn thay mà phòng .
Sự mơ mòng thực hư nhường giới .
Lòng Trần gian mê muội biết đâu .
Tuy rằng hồn phách nhiệm màu ,
Khuôn thiêng tích để đã lâu đến rày .
Cũng nhiều ngày cưỡi mây hương gió .
Vào Nghệ an sẵn có nhân duyên .
Nước non khéo kết nên nguyền .
Chốn thanh cảnh lịch kết duyên cũng vừa .
Ấy duyên xưa hay là nợ mới .
Hội phi thường Thánh mới sinh con .
Tuổi vừa ba , bốn khôn ngoan ,
Hiềm đâu Thánh để lại con cho chồng .
Chữ Sắc - Không xem thường mới biết ,
Lấy của gì là kiếp là chăng ,
Tính thiêng không ngại gió trăng .
Ai ngờ phút hợp , phút tan nữa hoài .
Song vật nài làm chi cho khổ .
Đứng duyên lành sẵn có nhiều nơi .
Thăm rồi Tiên lại ra chơi ,
Cây cao bóng mát là nơi giữa đường .
Giếng âm - dương xưa nay trong sạch ,
Khi nắng mưa trợ khách đường xa .
Đồi Ngang - Phố cát vào ra .
Đôi khi giáp cõi Thanh - Hoa đất lành .
Chốn cảnh thanh Tiên thường ngự đấy ,
Khách vãng lai tự ấy mới hay .
Cho nên Tiên mới ra tay ,
Một ngày khôn vái hai ngày khôn van .
Khách thác oan phải nhiều phi mệnh .
Bèn sai ra đội mệnh nhà Vương .
Ngữ tình kíp giận khôn lường .
Sai binh mã tới Đồi Ngang tiễu trừ .
Súng phá luôn vang như sấm động ,
Dấu thiêng nào dám chống Quốc uy ,
Thánh bèn ngự thiện lánh đi .
Than rằng má phấn đâu bì trượng phu .
Sao không xét Âm - Dương nhị lý .
Lại ra điều lấy ý nạt nhau .
Lệnh Trời ai dám chi đâu ,
Còn ai ở Thế biết nhau sau này .
Chốn am mây từ ngày nguy biến .
Ai còn kẻ dâng tiến đèn hương .
Nền xưa hiu quạnh tuyết sương .
Trăng hoa giãi tỏ trăng vàng còn chen .
Các bạn Tiên về tâu Thượng Đế .
Có Tiên chầu Thánh mẫu ngự chơi .
Đồi Ngang - Phố Cát nghỉ ngơi ,
Lầm con mắt tục ra người bạo hung .
Đã phá tan nơi ăn chốn ở ,
Lại còn điều càn rỡ nhuốc nha ,
Ngọc Hoàng ngự chỉ phán ra ,
Đào , Lan , Quế , Huệ bách hoa mọi nàng ,
Xuống Đồi Ngang thăm chầu Tiên Thánh .
Xem Tiên chầu đức chính ra sao ?
Phán rằng phẩm trật Thiên Tào ,
Mà sao Trần thế hỗn hào tam phân .
Trách Thôn dân những người ở đấy ,
Sao con Trời dám lấy làm khinh .
Sơn xuyên đòi lại bách linh .
Gia uy sẽ thử anh linh bõ bèn .
Chớ sát hại nhân gian chi quá ,
Trời là Cha - Thiên hạ là con .
Ví dầu đua mạnh tranh khôn .
Thời nhân gian đó ai còn dám đương ?
Vua Ngọc Hoàng phán lời nhân thử ,
Các cung Tiên vâng cử ra đi .
Tới nơi hỏa tốc tinh phi .
Trước thời thăm Thánh , sau thời trách dân .
Đã yêu phần càng thêm yêu nghiệt .
Quở dân phàm sợ khiếp hơn xưa .
Dân mong lập Điện nên thờ .
Bách Quan đội lệnh sau xưa cho tường .
Chốn Đồi Ngang thờ chầu Tiên Thánh .
Tự hương tàn , khói lạnh nhường nay ,
Lấy làm khuất mắt khôn hay ,
Gia uy thời cũng nhiều người sợ kinh .
Tâu Thánh minh ngự qua nhời ấy ,
Lập Đền thờ tự đấy mới yên .
Người đâu quái dị nồng nàn ,
Xót thương dân tục lầm than phải tùy .
Sắc tức thì tặng phong Chế thắng .
Biển vàng treo " Thượng Đẳng Tối Linh "
Muôn dân từ đấy sợ kinh ,
Mới hay phép Thánh anh linh , nhiệm màu .
Khắp đâu đâu nức danh từ đấy ,
Ai kẻ còn dám lấy làm khinh ,
Dù lòng hiển Thánh anh linh .
Đến đâu thời đấy hãi kinh giờn giờn .
Cũng có cơn hiền lành vui vẻ .
Phấn điểm trang chải rẽ thanh tao .
Dù khi thất ý nơi nao ,
Dường con sư tử bào hao dậy giàng .
Thêm đôi bà chầu Quỳnh , chầu Quế .
Ấy là trong nghĩa đệ thân huân ,
Hôm mai chầu chực áo khăn .
Uy nhờ Tiên Thánh có phân nồng nàn .
Rầy Mẫu đã về ngàn nhân đức .
Quyền đôi bà xem xét trang nghiêm .
Có khi nương gió thác rèm ,
Ai nương bóng Thánh càng thêm não nùng .
Cũng có khi quyền chung tiệm nhớ .
Cũng có khi qua nhớ lại thôi ,
Thương khi duyên chắp phận xui ,
Ban tài , ban Lộc , ban Ngôi , ban Quyền .
Kẻ lỗi nguyên càng thêm bầm nhỡ .
Có lòng tin khấn khứa truyền tha .
Trọn bề bách nguyệt hồn hoa ,
Đã nên một cảnh yên hà có danh .
Xưa Thánh chốn yên lành cùng ngự ,
Cũng từng quen Tiên nữ năm , ba
Rẩy chân xuống sợ Sa bà .
Khuôn phù Ngọc ân , quản ba giới Thần .
Gia uy linh cứu nhân , độ Thế .
Trẻ cùng già ai nấy đội ơn .
Ban Tài , ban Phúc , ban Nhân ,
Phù hộ đệ tử thiên xuân thọ trường .
Bài này hát theo điệu chầu văn . dienbatn đã có lần bỏ mấy này để ngồi theo suốt gần chục giá hầu . Phải công nhận rằng , giữa ngút ngàn hương khói nhang trầm , tiếng đàn réo rắt , tiếng mõ điểm thanh tao , chính xác , tiếng hát chầu Văn vủa một cô tre trẻ , đèm đẹp , thật không uổng phí cuộc đời ở cõi Ta bà này .
Nghệ an có đức thanh minh ra đời .
Gươm thiêng chống chỉ đất trời
Đánh Đông , dẹp Bắc việc ngoài binh nhung .
Thanh xuân một đấng anh hùng .
Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam .
Hai vai nặng gánh cương thường ,
Sông Lam sóng cả , buồm dương một chèo .
Dựng nền đức Thuấn nhân Ngiêu ,
Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi .
Khi Bích động lúc Bồng lai ,
Non nhân , nước trí mọi nơi ra vào .
Cỏ hoa hớn hở đón chào .
Nhớ xưa Lưu Nguyễn lọt vào Thiên thai .
Trời Nam có đức Hoàng Mười ,
Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai .
Nền chí dũng , bậc thiên tài ,
Văn thao - Võ lược tư Trời thông minh .
Tiêu dao di dưỡng tang tình .
Thơ Tiên một túi - Phật Kinh trăm tờ .
Khi Phong nguyệt , lúc bi từ .
Khi xem hoa nở , khi chờ trăng trong .
Khi Thứu lĩnh , lúc non Bồng ,
Cành cây mắc võng , lòng sông thả thuyền .
Người Thành thị , khách Lâm tuyền ,
Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang .
Phong quang đẹp ý Đức Hoàng .
Khác nào Thu cúc - Xuân lan tới tuần .
Xiết bao bể ái , nguồn ân .
Ban Tài , tiếp Lộc , thi nhân , thi từ .
Gác ở đàng mượn gió đưa .
Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu
Năm ba Tiên nữ theo hầu ,
Trăm hoa cài tóc , nhiễu Tàu vắt vai .
Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi ,
Dâng câu thiện bảo chúc lời tăng long .
Trần duyên chưa trút được lòng ,
Dường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên .
Nghề thường hội nghị quần Tiên ,
Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng .
Vân tiên mượn cánh chim hồng ,
Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?
Cầu Ô đem bắc sông Ngân ,
Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng .
Bóng trăng soi tỏ canh trường .
Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người .
Thủy tiên dìu dắt đón mời ,
Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng .
Vượt bể đào tới ngàn xanh .
Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non .
Trúc xinh cô Quế cũng giòn .
Phù dung yểu điệu - Mẫu đơn não nùng .
Ngày ngày lên núi ngóng trông .
Đỏ hoe khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng .
Nhớ xưa hẹn ngọc , thề vàng .
Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi
Lên núi rồi lại xuống đồi ,
Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ .
Vào rừng hái lá đề thơ ,
Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người .
Cõi Trần mở tiệc mừng vui .
Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh .
Rượu đào kính chúc Thánh minh .
Phong hoa , tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương .
Ngẫm câu Thế sự vô thường
Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần
Vắng người vắng cả mùa Xuân .
Nhớ người vì Nước , vì Dân , vì Đời .
Thế gian nhớ miệng Hoàng cười
Nhớ khăn Hoàng chít , nhớ lời Hoàng ban .
Khi phố Cát , lúc đồi Ngang ,
Nón kinh vó ngựa , dăm ngàn tiêu dao .
Đường đường cung kiếm anh hào ,
Túi thơ , bầu rượu sớm chiều sênh sang .
Hèo hoa chảy hội Tiên hương
Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây .
Khi nương gió , lúc cưỡi mây .
Khi rung khánh ngọc , khi lay chuông vàng .
Hoàng về gối xếp ai mang ,
Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông .
Lệnh truyền cô Quế , cô Hồng ,
Hèo hoa , gối xếp , đèn lồng tay mang .
Cô Lan , cô Huệ xếp hàng ,
Gióng yên , dắt ngựa lên đàng vân du .
Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa ,
Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ an .
( Theo THÁNH MẪU LINH TỪ ) .
LẠM BÀN VỀ CHUYỆN ĐỒNG BÓNG.
Bản chất của những Giá hầu trong Đồng bóng hay lên Đồng là những bài hát theo Điệu Chầu Văn ( Có rất nhiều Điệu - Ví như các điệu Hữu điệu Xuân quang, Hữu điệu Cách Phố liên, Hữu điệu bộ bộ thiềm, Hữu từ Nhất tiễn mai vv ...) , nhằm ca ngợi tinh thần anh dũng hy sinh đánh giặc ngoại xâm, cứu giúp dân lành của các Nhân thần hay Linh Thần . Tại những nơi các Anh hùng sinh sống và hy sinh, các Triều đại trước thường có Sắc phong và được nhân dân lập Đền thờ phụng. Đây là một truyền thống quý báu của Dân tộc ta , nhằm ca ngợi những tấm gương hy sinh vì Đất nước . Theo thời gian , những điệu Chầu Văn trên dần dần biến tướng thành việc Hầu Đồng như hiện nay. Trong việc lên Đồng - mà Đạo Cao đài có việc tương tự là Cầu cơ và Nhận Điển , con Đồng lúc đó hình như nhập vào một chiều không gian khác để truyền tín hiệu của chiều không gian đó về -Tương tự như một máy thu tín hiệu. Tuy nhiên , để có thể là người nhận được tín hiệu đó ( Điển ) không phải bất cứ ai cũng làm được . Trong Đạo Cao đài , người nhận Điển phải được tuyển chọn từ những cô gái trinh nguyên và có cuộc sống trong sạch về mọi mặt , những người này được gọi là Đồng nhi . Những Đồng nhi này phải được truyền dạy và tập luyện từ khi còn rất nhỏ và rất được trân trọng , ưu ái . Còn việc lên đồng hiện nay , bất cứ ai có tiền vài chục triệu là có thể đảm nhận vai Đồng . dienbatn đã từng chứng kiến không ít con Đồng nhẩy múa , uốn éo một cách vờ vịt , thậm chí khi phát Lộc còn thường ném tiền cho người nhà hay nhấm nước bọt để tách những đồng tiền kẹp díp . Có rất nhiều nơi đã biến chuyện lên Đồng - Mà bản chất là ca ngơi sự hy sinh anh dũng của các liệt vị anh hùng thành một nơi kinh doanh Thần Thánh . Mội lần hầu đồng là phải tốn hàng chục triệu trở lên . Bà Đồng ở phố T.. khi xem cho ai cũng phán có căn Đồng và nhờ vậy thu hàng chục triệu mỗi ngày . Bà này có một ông chồng và một anh nhân tình hờ đóng vai Pháp sư cùng ở chung một nơi . Bà ta bỏ tiền ra xây một cái Điện rất lớn và tổ chức lên Đồng ỳ xèo . Số thân chủ của bà lên tới hàng ngàn người . Một người bạn của dienbatn đã bỏ gần hai năm theo bà ta , tốn hàng trăm triệu đồng mà vẫn không đạt được kết quả nào . dienbatn thường nói với người bạn đó : Những vị Tướng trong Hầu Đồng đó là những vị Tướng có tinh thần anh dũng , hy sinh vì Đất nước . Họ là những vị Quan Thanh liêm , chỉ ăn Lộc của Triều đình , không hề tham quan , nhũng nhiễu , hạch sách Dân kiếm tiền , lại là Tướng chết trận . Vậy thì họ đâu có tiền mà cô xin . Nếu cô cần xin tinh thần bất khuất , hiên ngang chống Giặc ngoại xâm thì họ có thừa , còn tiền thì họ đâu có mà cho cô . Một chuyện buồn cười nữa là chuyện của Ông Hoàng Bảy ở Bảo Hà . Vốn ông Hoàng Bảy là người dân tộc nên chuyện cờ bạc , hút sách ngày xưa là chuyện thường ngày ở Huyện . Tuy nhiên , dân gian và các Triều Đại trước tôn vinh, Phong Sắc và lập Điện thờ ông Hàng Bảy là do ông có công đánh giặc , giữ gìn bờ cõi , lo cho Dân được sống an lành. Vậy mà rất nhiều con hương - Đệ tử cứ nhè Đền Ông Hoàng Bảy mà xin số Đề , hay xin tiền từ việc lô đề , thậm chí cả ma tuý .
Bảo tồn Văn hóa, tôn vinh anh hùng Dân tộc là một việc đáng trân trọng . Lợi dụng những người anh hùng để kinh doanh Thần Thánh là việc cần loại bỏ. Về việc Tâm linh, những bà Đồng đó liệu có biết những việc mà mình phải gánh chịu ở kiếp kế tiếp hay không ???
Nội dung bài viết của bạn về sản phẩm: Chú ý: Không chấp nhận định dạng HTML!
Ứng dụng: Kém Tốt
Nhập mã số xác nhận bên dưới: