ÔNG PHAN TRỌNG ĐÍNH- MỘT NGƯỜI THẦY MẪU MỰC
ÔNG PHAN TRỌNG ĐÍNH- MỘT NGƯỜI THẦY MẪU MỰC
TUỔI THƠ VẤT VẢ
Ông Phan Trọng Đính sinh năm 1903, Ông là con của cụ Phan Trọng Mưu, sinh năm 1851, đỗ tiến sĩ năm 1879, tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp năm 1885 và bà Nguyễn Thị Cúc ( húy là Lạng) người làng Lai Thành, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên, con gái của ông Nguyễn Hùng la suất đội của Cụ Phan Đình Phùng. Bà Cúc là Vợ thứ tư của cụ Phan Trọng Mưu, Bà sinh được hai con trai là Phan Trọng Kế (tên thân mật trong nhà là Mày Anh) và Phan Trọng Đính (tên thân mật là Mày Em).
Ông Đính ở với mẹ ở xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (nay là Tùng Ảnh). Năm 1904, lúc Ông Đính mới một tuổi thì cụ Phan Trọng Mưu mất, nhà sa sút, đời sống khó khăn vất vả. Năm 1911 lúc ông Đính lên 8t tuổi, bà Mẹ Nguyễn Thị Cúc phải ra đi về quê ở Huế kiếm tiền sinh nhai và tái giá.
Ông Đính ở lại với bà mẹ cả - vợ cả của cụ Mưu. Bà mẹ cả rất thương yêu ông Đính. Hai mẹ con quá quyến luyến nhau, bà cụ cả đi đâu thì để lại cái áo cho con ôm, đêm ngủ đỡ nhớ mẹ. Ông Võ Liêm Sơn con rể của bà cụ Cả làm tri huyện ở huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam vì chống thuế, không chịu thu thuế nên bị cách chức, giáng xuống làm huấn đạo (quan phụ trách giáo dục một huyện) ở huyên Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Khoảng năm 1915 – 1916, lúc ông Đinh đã 12-13 tuổi, ông Võ Liêm Sơn lại được điều vào làm huấn đạo ở Phan Thiêt, đưa ông Đính đi theo.
Năm 1921 ông Võ Liêm Sơn về Huế, ông Đính được đưa về Huế học trường Quốc học. Ông là một học sinh cần cù, chăm chỉ ,nết na, ai cũng quý mên. Đi từ thành phố Huế về làng Truồi để thăm mẹ. lúc đó đã tái giá với cụ Trần mà ông vẫn đem theo một cuốn sách dày để học. Cụ Trần là bố dượng mà cũng rất yêu mế, định làm mối cho ông một người cháu gáicủa cụ. Ông Đính ghét thực dân Pháp nhưng lại rất giỏi tiếng Pháp. Lúc đi thi môn tiếnp Pháp đạt điểm cao nhất : 20/20.
MỘT NHÀ GIÁO MÔ PHẠM
Năm 1925, lúc 22 tuổi ông Đính đậu bằng thành chung, đậu cả bằng sư phạm ( diplôme d’école normale) được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường sơ học ( lớp 3 – cours élémentaire) ở Bến Thủy – Vinh. Lúc đó lương ông được 49 đồng Đông Dương mỗi tháng ( gạo tốt nhất 3,5 – 4 đồng một tạ). Ông không đi giầy mà chỉ đi guốc, mặc áo dài vải thâm vì “ vẻ vang gì mà ăn mặc sang trọng khi mình sống nô lệ”. Ông không đi xe kéo( xích lô do người kéo) vì cho đó là “ vô nhân đạo”. Buổi trưa ông ăn hai ổ bánh mì hết 6 xu. Mỗi tháng ông chỉ tiêu 5-6 đồng. Còn nữa đưa cho bà mẹ ông chủ nhà thổi cơm ăn và đưa cho người anh em cùng cha khác mẹ là ông Phan Trọng Quảng đi hoạt động cách mạng. Ông Quảng là đảng viên đảng Tân Việt. Năm 1928 ông Quảng đi Sài Gòn hoạt động cách mạng, đảng Tân Việt cấp cho 25 đồng, còn ông Đính cho 50 đồng.
Khoảng năm 1928 ông dạy ở trường tiểu học Cao Xuân Dục, thành phố Vinh. Cũng vào năm này ông kết hôn với bà Phạm Thị Mai – con cụ thị Phạm Khắc Khoan, một tú tài nho học ở xã Đức Nhân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1931 ông dạy lớp nhì đệ nhị (cours moyen deux) ở trường tiểu học Nguyễn Trường Tộ thành phố Vinh. Bạn Trần Ngũ Tài sinh năm 1916, học trò cũ của thầy Đính năm 1931-1932 tại lớp nhì đệ nhi trường Nguyễn Trường Tộ kể lại: “ Thầy Đính là giáo viên hiền lành, điềm đạm. Trí nhớ của thầy thật đáng kinh ngạc: Thầy kể chuyện: Ba người lính ngự lâm pháo thủ” bằng tiếng Pháp, tiếng Việt rất hấp dẫn. Thầy dạy rất giỏi, cho nên nơi nào khó thì người ta điều thầy đến đó”.
CUỘC ĐỐI ĐẦU VỚI VIÊN TRI HUYỆN.
Năm 1935-1938 ông vừa làm hiệu trưởng vừa dạy lớp nhất ở trường tiểu học Quỳnh Lưu, tình Nghệ An. Ông dạy rất giỏi, học sinh đạt kết quả cao, phụ huynh rất quý trọng thầy. Ông rất nghiêm túc giảng dạy, nhứng học sinh lười biếng thiếu cố gắng có thể bị những hình phạt rất nghiêm khắc. Những học sinh chăm chỉ, kỷ luật, học giỏi đều được biểu dương khen thưởng kịp thời. Phụ huynh học sinh không hề oán trách thầy, trái lại họ rất ngưỡng mộ, biết ơn và quý mến thầy. Nhưng thầy từ chối mọi tặng phẩm quà cáp. Ngày tết học sinh đến chúc tết, đem pháo đến nổ thì thầy cho, còn đem rựu, tiền, quà bánh thì thầy không nhận, bắt đem về.
Đặc biệt ông rất thương học sinh nghèo học giỏi, có lần đi chấm thi ở Thanh Hóa gặp mấy em học sinh giỏi là con nhà nghèo, ông đã đem hết số tiền lương của ông cho các em. Trong số học sinh của ông ở Trường tiểu học Quỳnh Lưu, có anh Nguyễn Đình Lương là một học sinh xuất sắc, tính tình nết na, được thầy rất yêu quý cho ở trong nhà như con. Sau này anh Lương thi vào cao đẳng tiểu học (trung học cơ sở) đã đậu đầu toàn Trung kỳ. Anh được tặng rất nhiều sách quý đến nỗi phải dùng xe bò chở và được vào thăm vườn thượng uyển của vua Bảo Đại. Bảy ngày sau Cách mạng tháng 8 thành công, anh Lương trở thành thư ký cho ông Tôn Quang Phiệt đại diện Việt minh ở Trung bộ, nhận ấn tín thoái vị của vua Bảo Đại.
Ông không hoạt động cách mạng nhưng ngấm ngầm ủng hộ cách mạng. Học trò của ông lúc đó tuy ở lớp nhất bậc tiểu học (bằng lớp 6 bây giờ) nhưng đã lớn, đã trưởng thành, một số đã tham gia phong trào cách mạng. Ông biết rõ nhưng vẫn làm ngơ như không biết gì. Ông rất ghét bọn quan lại chen nhau trên đường công danh, bợ đỡ thực dân Pháp, chống phá phong trao Cách mạng. Ông viết mấy dòng thơ:
“Sá chi những lúc tôm cùng tép
Chen chúc đua nhau chết một oi”
(giỏ đựng tôm cua của người đánh bắt. TG).
Ở địa phương này có viên tri huyện khét tiếng chống cộng. Một hôm viên quan đó đến trường tiểu học của thầy Đính hất hàm hỏi thầy:
- Học trò của ông hoạt động cộng sản, rải truyền đơn cộng sản, chắc ông biết chứ ? Tại sao ông không bẩm báo lên trên và không ngăn chặn ? Ông che dấu cộng sản phải không ?
Thầy Đính bình tĩnh, hiên ngang trả lời:
- Tôi chỉ biết dạy học, dạy sao cho học sinh học giỏi, thi đỗ, như phụ huynh học sinh hằng mong muốn. Học sinh làm việc gì khác, đó là việc của họ, tôi không biết. Nếu ngài muốn biết thì ngài hỏi con gái của ngài.
Cô T. con gái yêu quý của viên tri huyện, là học trò ngoan của thầy. Cô ấy xinh đẹp, học giỏi và cũng tham gia hoạt động cách mạng. Cô còn đem lòng yêu mến anh V., một cựu học sinh ưu tú khác của thầy, một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Thầy nghĩ: nếu viên tri huyện có hỏi thì cô cũng chằng khai ra đâu. Viên tri huyện bị một đòn giáng trả mạnh, đành ngậm miệng không thể nói gì hơn. Bởi vì cô T. là con gái rượu của ông ta. Ông ta có thể đàn áp cách mạng nhưng liệu ông ta có thể đàn áp được con gái yêu quý của mình không?
NGƯỜI BẠN CỦA CÁC CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG
Năm 1938 – 1939 thầy Đính lại trở về Vinh dạy lớp nhất (cours supérieur) ở trường Cao Xuân Dục, một trường tiểu học có nhiều lớp, có đông học sinh, thầy làm thơ:
“ Được đổi về Vinh hóa lại hay,
Nghe tin thi sĩ cũng nhiều đây
Đôi vần xướng hoạ hồn bay bổng
Tình bạn tình thơ quyện tháng ngày”
Và thầy Đính lại miệt mài dạy học:
Dạy toán giảng văn nói hết lời
Cương thường luân lý các trò ơi
Trồng cây mong đến ngày sai quả
Vẫn miệt mài luôn trọn cuộc đời.
Trong thời gian dạy học ở Vinh từ 1928 đến 1934, ông Đính và vợ tuy chưa tham gia phong trào cách mạng nhưng đã có nhiều quan hệ với các chiến sĩ cách mạng, đã ủng hộ phong trào cách mạng, thiết thực giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng. Trước hết giúp đỡ về tài chính cho người em ruột cùng cha khác mẹ Phan Trọng Quảng, một trong những chiến sĩ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, có điều kiện hoạt động. Thứ hai là có những quan hệ với các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng, các nhà giáo dục và văn hóa tiến bộ, yêu nước như giáo sư Đặng Thai Mai, đưa cơm chăm sóc các chiến sĩ cách mạng bị giam ở nhà tù Vinh như bà Nguyễn Thị Minh Thái, vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Năm 1940 – 1941 thầy Đính lại được điều đến làm hiệu trưởng Trường tiểu học huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ở đây gia đình thầy đã quen thân với bà Thanh – một chiến sĩ cách mạng bị quản thúc ở địa phương và là chị ruột của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc mà gia đình vẫn thường nói đến với tất cả lòng ngưỡng mộ.
Năm 1942 – 1943 thầy Đính làm hiệu trưởng Trường tiểu học xã Hà Tĩnh.
Tháng 6/1943, bị bệnh nặng, thầy vào điều trị ở bệnh viện Huế và qua đời ở đó. Thầy chỉ kịp giối giăng lại cho đứa con trai cả: “Con hãy thương yêu và chăm sóc mẹ con và nuôi nấng các em thanh người hữu ích cho xã hội”.
*
* *
Thầy Đính không chỉ là một nhà giáo mẫu mực mà còn là một người có lòng nhân ái, thương người nghèo khó, người lao động. Đối với người giúp việc trong nhà, ông bao giờ cũng đối đãi tử tế, không hề khinh miệt, mắng mỏ.
Một hôm ông đi làm về, bà vợ thấy ông không còn chiếc vét-tông trên mình mà chỉ có sơ mi. Hỏi ra thì ông bảo thấy một người nghèo khổ nằm trên vỉa hè, rét run lẩy bẩy thiếu áo quần, ông liền cởi luôn áo đắp cho người đó.
Ông Đính là một người cương trực, ông rất ghét những kẻ nói dối, những kẻ xu nịnh. Một hôm con trai của ông lấy quả bóng bàn của ông ra chơi làm méo mó quả bóng, cậu nghe nói làm nóng nó lên thì nó sẽ phồng ra, cậu không hiểu cách làm nóng là bỏ quả bóng và nước nóng, cậu đem hơ trên lửa. Quả bóng bị cháy, cậu lo sợ vào thú thật với ông, chờ đợi một sự quở trách nghiêm khắc, nặng nề của bố. Ngờ đâu ông tươi cười, ôn tồn bảo: “Con làm sai nhưng đã biết thú nhận, biết nói thật, không che dấu, thế là rất tốt. Bố tha thứ cho con”. Cách cư xử như vậy đã gây cho con một ấn tượng sâu sắc, mãi suốt đời.
Ông Đính là một người cha nghiêm khắc khi giáo dục con cái nhưng vẫn mực yêu thương. Hàng ngày khi con đi học về, ông bảo đưa vở ghi chép cho ông xem, nếu góc giấy bị quăn, mực bị dây bẩn, trình bày bài toán không rõ ràng, phép tính không ngang với lời giải thì ông lấy thước gõ vào ngón tay, hoặc lấy roi mây quất vào đít. Nhưng chỉ một roi thôi.
Để luyện tập con giỏi tiếng Pháp, ông bắt con kể lại bằng tiếng Pháp những câu chuyện cổ tích thiếu nhi, chuyện cổ tích trong những cuốn sách dành cho thiếu nhi gọi là “sách hồng” (livres roses) mà ông mua rất nhiều cho con.
Ở tuổi hai mươi – ba mươi ông là một người khỏe mạnh nhờ tập luyện. Ông không to cao, nhưng thân hình hài hòa, cân đối. Ở bụng sáu múi nổi lên trông rất đẹp. Cánh tay rắn chắc đã từng bê cả cái trục đá thanh lăn rơm. Đặc biệt ông đã lên gân bụng làm bệ tỳ, dùng tay kéo dây để dương một chiếc nỏ có cánh bằng tre già mà người khác phải để cánh dựa vào mặt đất rồi dùng chân đạp kéo dây mới cương được. Ông Đính chơi bóng đa, chơi gà chọi, đánh chim gáy bằng bẫy, thích đọc sách, xem phim.
Sau 15 năm tận tụy dạy dỗ học sinh với lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao, công thêm sinh hoạt không điều đọ vào những năm cuối đời, thường hay thức đêm nhiều, ông đã lâm bệnh và mất vào tuổi 40, lứa tuổi mà người ta xem là chững chạc để có những thành đạt lớn, để lại những nỗi đau cho vợ con, gia đình và lòng thương tiếc của bạn bè đồng nghiệp. Ông chưa kịp nhìn thấy những giờ phút sôi động của cuộc cách mạng tháng 8 và Ngày Độc lập vẻ vang của dân tộc mà ông thầm mơ ước và ủng hộ, chưa kịp nhìn thấy sự trở về của nhà đại cách mệnh Nguyễn Ái Quốc mà ông kính trọng và ngưỡng mộ bấy lâu nay.
Nội dung bài viết của bạn về sản phẩm: Chú ý: Không chấp nhận định dạng HTML!
Ứng dụng: Kém Tốt
Nhập mã số xác nhận bên dưới: