NGƯỜI CÂU CÁ BÊN BỜ SÔNG LA
BÀI THAM DỰ VIẾT VỀ HÀ TĨNH
KỶ NIỆM 170 NĂM THÀNH LẬP TỈNH
NGƯỜI CÂU CÁ BÊN BỜ SÔNG LA
Truyện ký
1
Sông La bắt đầu từ hợp lưu của sông Ngàn Sâu và sông Ngàn Phố, tại bến Tam Soa - Dòng nước xanh trong mềm mại chảy qua một vùng cư dân trù phú thuộc Tổng Việt Yên, huyện La Sơn, Phủ Đức Thọ; Sông La đổ vào sông Lam ở gần chân núi Rum.
Đê La Giang ở hữu ngạn sông La, bắt đầu từ núi Tùng Lĩnh, men theo bờ sông, qua suốt cả vùng Đức Thọ, cho đến chân núi Hồng Lĩnh ở Bấn. Đứng trên đê La Giang ở vùng các làng Tùng Ảnh, Đông Thái, Yên Hội... ngắm nhìn về phía Bắc bên kia sông là dãy núi Thiên Nhẫn, còn gọi là núi Ngàn nhìn về phía Tây-Tây nam là dãy núi giăng màn xanh thẩm mờ ảo trong sương mù và mây phủ: nhìn về phía đông là núi Hồng Lĩnh chập chùng hùng vĩ... Đứng ngắm bốn phương rồi đưa mắt nhìn suốt sông La một dải mênh mông xanh biếc hiền hòa, những cụ già trong vùng luôn tâm niệm về một vùng địa linh nhân kiệt.
Hai bên bờ sông La là vùng quê vô cùng trù phú, ngoạn mục, đất đai màu mỡ, cây cối xanh tươi. Cư dân phần lớn làm nghề nông nhưng cũng có vùng làm nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như nghề dệt lụa (lụa Hạ), gỗ Thái Yên, rèn Trung Lương... Xóm làng ven sông đều lấy nước sông La trong vắt làm nước sinh hoạt. Những buổi chiều khi mặt trời đã khuất dãy núi giăng màn, sau một ngày lao động cần cù, người dân thường ra sông La tắm giặt, bơi lội, ngâm mình trong dòng nước mát để xua tan những mệt mỏi nhọc nhằn. Các o thiếu nữ đi gánh nước đêm trăng làm rộn rã bến sông. Vì vậy hai bên bờ sông La có rất nhiều bến. Mỗi bến đều mang một cái tên sinh động gắn với nếp sinh hoạt dân làng hoặc đặc trưng riêng, như bến Ông Cống, bến Xưởng Dầu, bến Chợ Hạ, bến Cơn Gạo, bến Lở, bến Dinh, bến Giá... ở phía hữu ngạn, và những bến Chùa, bến vải, bến Chợ Thượng... ở phía tả ngạn. Các bến đều được ghép bằng đá tảng, những bến sầm uất thì còn xây bậc cấp từ mặt đê xuống đến mép nước như bến Cơn Gạo, bến Dinh...
2
Ngày đó, khoảng những năm 1940-1941, bến Cơn Gạo là một bến chính vô cùng sầm uất và rộn rã của xóm trên làng Đông Thái. Sở dĩ gọi là Bến Cơn Gạo vì ngay trên bến có một cây gạo rất cao to, đến mùa hoa nở đỏ rực, rơi lả tả xuống bến sông và trên mặt đê. Cái xóm ven sông ở địa đầu làng Đông Thái đó cũng gọi là xóm Cơn Gạo.
Dân xóm Cơn Gạo một phần làm nghề nông nhưng rất nhiều nhà làm nghề thủ công truyền thống là dệt lụa thứ lụa Hạ mượt mà nổi tiếng và kèm theo buôn bán, với loại hàng chủ yếu là lụa, vải... thường gọi là buôn hàng tấm. Dân xóm Cơn Gạo nói riêng cũng như cả làng Đông Thái, hay rộng ra là cả Tổng Việt Yên, là vùng đất hiếu học, có rất nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, nhiều người đã trở thành nhân vật lịch sử của nước nhà*. Vì thế trẻ con hầu hết đều được đi học. Trường tiểu học Đông Thái chỉ cách bến Cơn Gạo chưa đến trăm mét, hàng năm là nơi tụ hội, là trung tâm thi cao đẳng tiểu học của cả một vùng phía bắc Hà Tĩnh. Các trường ở Phố Châu, Hương Khê, Can Lộc... đều thi tiểu học ở trường Đông Thái.
Bọn trẻ con trong xóm, ngoài những giờ đi học và làm việc nhà, khi có thời gian rỗi thường rủ nhau ra sông với những trò chơi trên sông nước đầy thú vị như mò tôm, lặn bắt cá ngạnh, bơi lội và nhất là đi câu.
Sông La có rất nhiều cá, như cá lúi, cá dưng về mùa xuân; cá gáy, cá hanh, cá bống về mùa hè. Câu cá lúi là niềm đam mê và hào hứng vô cùng với một cây trúc lấy ở vườn sau đền Cao Các, sợi tơ xe săn làm dây và đoạn thép cứng uốn cong làm lưỡi, đính thêm mẩu chì và đoạn phao ngô là đã có một cần câu tốt để câu cá lúi. Vê một mẩu mồi bằng cơm và khoai quết nhuyễn, móc vào lưỡi câu, thả xuống nước. Cái phao nổi theo chiều thẳng đứng trôi chầm chậm, là điểm nhìn tập trung đầy háo hức của người câu. Chú cá đến đớp mồi, cái phao nhấp nhấp rồi bị kéo tụt chìm xuống, lúc đó giật nhẹ cần câu, chú cá bị lưỡi câu móc vào miệng, cần câu cong vút xuống vì chú cá hốt hoảng lao đi: "Cá chạy"! Cảm giác cầm cần câu lúc "cá chạy" thật khó diễn tả. Những rung động rần rật truyền từ cần câu đến tay tỏa nhanh trong toàn cơ thể tạo nên một giây phút kỳ diệu tuyệt vời.
Câu cá bên bờ sông không chỉ là trẻ con, còn có người lớn nhàn rỗi cũng mê thú đi câu. Trong những người lớn, người ta thường thấy một người đàn ông, tuổi độ gần 40, vóc người đậm, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, dáng đi chắc chắn khoan thai. Ông thường ngồi câu vào buổi sáng sớm hoặc chiều khi nước lên. Ông buông câu xa, ở mức nước sâu để câu cá hanh, cá trạch... Dân làng thường gọi ông là ông Phú theo tên người con trai cả, nhưng thực ra ông tên là Định. Người trong làng thường biết ông Định là con cụ Huấn đạo cử nhân, dòng dõi nhà nho khoa bảng, lớp ông, lớp cha trong họ đều có đồng khoa tiến sĩ, đồng khoa cử nhàn. Ở tuổi thanh niên, ông đã đi xa nhà, ở đâu không ai biết. Khoảng đầu năm 40 ông về quê và nhàn nhã, không làm vì cả, như một người thất nghiệp. Vì nhàn rỗi nên ông đi câu, đó là thú tiêu khiển tuyệt vời. Nhưng khi ngồi câu, hình như ông ít chú ý đến câu, mà đăm chiêu suy nghĩ. Thì lịch sử từ ngàn ngàn xưa đã có biết bao chuyện về các bậc sĩ phu, lui về ở ẩn, lấy đi câu làm thú tiêu dao, để cho thời gian lặng lẽ trôi qua, mà chờ thời chợ vận.
Ông Định nhàn rỗi để đi câu, để ngẫm nghĩ, để suy tư. Ông không dự vào việc lo đời sống thường ngày vì bà Phú, vợ ông, đảm đang lo liệu bằng nghề dệt lụa Hạ, buôn hàng tấm chạy chợ Thượng, chợ Vinh...
Có tin đồn ngầm trong dân làng, hình như là ông Định đi tù về do làm "loạn cộng sản", và đang bị quản thúc, nên ông đành ngồi câu cá. Ông thích ngồi câu một mình. Ông nhìn xa xăm. Ông nhìn lên phía bến Tam Soa, còn thấy bóng núi mồng gà sừng sững nơi đó bác một ônglà Phan Cát Tiu đã tử trận khi tham gia lãnh đạo phong trào văn thân với cụ Phan đời Phùng. Ông nhìn xuôi về phía núi Rum, bên kia là thành phố Vinh, nơi em ruột ông bị tù, bị đuổi học khi đang học trường quốc học Vinh, do tham gia đảng Tân Việt . Ông nhìn trời nước, suy tư ngẫm nghĩ. Có lẽ ông đang chờ... Chờ một cái gì đó.
3
Một hôm vào cuối hạ đầu thu năm 1940, không thấy ông Định ra sông câu cá buổi chiều, thì cũng là lẽ thường khi người ta bận hoặc không có hứng đi câu, chuyện cũng chẳng ai để ý.
Tối hôm đó nhà ông có khách. Cả buổi chiều ông đã đi đón.
Chập tối, ông về nhà cùng một người đàn ông, ít tuổi hơn ông một chút dáng cao gầy, da ngăm ngăm...
Bà Phú, vợ ông, ra chào khách. Người khách vui vẻ hồ hởi nói giọng Quảng Trị:
- Chị Đinh! Xin chào chị. Lâu quá rồi mới được gặp lại chị. Từ hồi ở Hội An đến giờ! Chị trông có vất vả hơn nhưng cũng không khác khi ở hội an là mấy. Anh chị có mấy cháu rồi?
Bà Phú dẫn người khách vào trong nhà, chỉ vào chiếc giường gỗ đen trên đó có 3 đứa bé đang ngủ mà nói:
- Đây, ba thằng con trai đó. Đứa lớn đẻ ở Hội An, đứa thứ hai đẻ sau khi nhà tôi ra tù, thằng bé nhất mới hơn hai tuổi.
Ông Định ghé tai thì thào dặn bà Phú để ý trông chừng bọn tuần đinh, hương kiểm vẫn hay lảng vảng quanh nhà... Sau khi người khách ngồi chơi uống nước, nói chuyện một chốc thì ông Định lại dẫn người khách đi. Trên đê sông La một đêm tối trời- Hai người đi một quãng từ bến Cơn Gạo đến bến Nhà trường. Đây là 1 bến vắng, ban ngày chỉ lũ trẻ con ra bơi đùa, còn từ chập tối là vắng lặng. Một con đò có mui đậu sẵn bên bờ. Hai người bước lên thuyền trong đêm tối. Không có người chèo thuyền. Ông Định lặng lẽ nhổ sào đẩy thuyền ra và chống thuyền đến giữa dòng sông, ông cắm sào. Về đêm, mặt sông La mênh mông tối thẩm, sóng vỗ rì rào nhè nhẹ. Xa xa nhìn về phía bến Tam soa, những ngọn đèn vạn chài, chập chờn, run trên sông như những ánh mắt trông chờ lập loè ẩn hiện. Thỉnh thoảng những con đò dọc vẫn lần lũi ngược xuôi mang theo tiếng mái chèo nặng nề chặt nước như nỗi niềm u uất của người dân dưới ách đô hộ.
Đêm nay gió núi ngàn thổi mạnh. Gió lượn trong lòng sông, lướt trên mui thuyền, xào xạc trong không trung và "chỉ có gió mới biết điều bí mật":
Tiếng ông Định:
- Anh đi từ trong kia ra chắc gặp nhiều khó khăn?
Tiếng người khách:
Tôi thay mặt xứ uỷ ra bắc họp, và cũng muốn nhân dịp này nắm thêm tình hình các địa phương... Thế anh bị bắt đày ở Lao Bảo năm 30 hay 31? Khi đó Đảng bộ Quảng Nam lao đao lắm hả?
- Tôi bị bắt vào đầu năm 31, lúc phong trào vỡ do bị khủng bố sau Xô viết Nghệ Tĩnh.
- Lúc đó ở Sài Gòn, tôi có nghe Lê Xuân Trứ* Vào nói chuyện lại là Tỉnh uỷ có bàn để anh trốn, xuất dương ngay sau khi bị lộ cơ mà?
- Khi đầu định như vậy, nhưng để bảo vệ tổ chức và thu xếp rút lui an toàn cho các cơ sở, tôi phải nấn ná ở lại, bố trí anh thêm* xuất dương. Khi chúng bắt được tôi, biết là bắt được Bí thư Tỉnh uỷ, chúng tập trung vào tra tấn khai thác... tôi đã nhận hết để bảo toàn cơ sở. Chúng kêu án tôi 12 năm đày đi Lao Bảo.
- Sau này anh Lê Văn Hiến thay anh làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam, rồi cũng bị bắt, đày đi Kon Tum... Dạo đó anh em mình từ Thanh Nghệ Tĩnh vào cùng với anh em Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng... cùng hoạt động, trong thanh niên cách mạng Đồng chí hội, là những ngày đầu thật đáng nhớ.
- Đúng đấy. Anh còn nhớ ngày ông Cụ thân sinh của anh ở Quảng Trị vào thăm anh, có gặp mặt một số anh em. Cụ dặn dò tôi nhiều về sự giúp đỡ anh em trong nhóm, Cụ có một bài thơ cảm khái...
- Anh còn nhớ bài thơ đó không?
- Có chứ, để tôi đọc anh nghe:
Nghệ, Tĩnh, Thanh, Đà với Trị Thiên
Tâm tư tình cảm hướng Xô Liên
Phất kiến tỏ rõ lòng khảng khái
Nghìn thu âu hẵn những Bình Nguyên...
Tiếng cười sảng khoái của người khách vang lên, rồi tiếp tục nói:
- Tình hình thế giới và cách mạng đang khẩn trương và chuyển biến mạnh. Chiến tranh thế giới đã bùng nổ. Phát xít Đức đã tấn công Liên Xô. Bước đầu chúng đang tiến ồ ạt về phía đông, nhưng Đảng ta nhận định là Liên Xô sẽ tiêu diệt bọn phát xít. Lúc đó thời cơ sẽ vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về đến Vân Nam. Các tỉnh phía Bắc giáp Trung Quốc đang đẩy mạnh phong trào, lập căn cứ. Anh cần bắt liên lạc để tham gia hoạt động ngay.
- Tôi cũng định thế, nhưng đang trong thời kỳ bị quản thúc, tuy nhiên nếu có dịp tôi sẽ thoát ly và trốn đi.
- Anh liên lạc với các đồng chí ở Hà Tĩnh, tôi để lại thư dặn. Có lẽ trước hết anh nên ra Bắc, để xa hẳn vùng quê này và làm mất hút tung tích, mật thám khó theo dõi.
...
Gió vẫn thổi từ núi Ngàn, thổi bùng lên trong lòng người câu cá bên bờ sông La một niềm khát vọng, một hoài bảo lớn lao đã nung nấu từ trước đây bên bờ sông Thu Bồn. Ông hồi tưởng lại những ngày sóng cồn cửa Đại, đá trắng Ngũ Hành Sơn, triều cường qua bến Câu Lâu.... Những chuyến đi vận động, "buổi đầu gieo hạt" trên đất Điện Bàn, Tam Kỳ, Duy Xuyên... những buổi sớm tinh mơ treo cờ đỏ búa liềm trên nóc chùa Cầu, trước chùa Phúc Kiến...
4
Vào khoảng những năm 1941-1943, Bến Cơn Gạo bên bờ sông La vẫn bình lặng trôi theo thời gian, mặc dầu đã nghe tiếng máy bay Anh-Mỹ và bóng dáng lính Nhật ở Vinh. Lũ trẻ con vẫn đi câu cá, mò tôm, bơi lội trong dòng sông trong xanh, con đò vẫn chèo ngang từ bến Cơn Gạo đến bãi soi Ngưu Chữ. Nhưng không thấy người đàn ông ngồi câu cá trên bờ sông nữa. Dân làng cũng chẳng biết ông đi đâu, có người nói ông lại bị mật thám bắt, vợ con ông chỉ nói ông đi làm ăn xa.
Cửa hàng đại lý rượu Nam Đồng Ích ở phố Quán Thánh - Hà Nội, có người chủ là một người tầm vóc vừa phải, nói giọng miền Trung. Ông có người anh mới ở trong quê ra. Cùng với người cháu ruột gọi bằng chú, ông chủ cùng người anh thường tổ chức những chuyến buôn lên miền ngược, theo ngược dòng sông Thao lên tận Tuyên Quang- Hà Giang. Đó là hai anh em ông Định và ông Tư.
Thực chất những chuyến buôn bán lên miền ngược của hai ông chỉ là vỏ bọc. Hai ông đang thực hiện những chuyến liên lạc của Việt minh. Giữa năm 1944, hai ông nhận lệnh trở về quê hoạt động. Ông Định lại trở về bên bờ sông La sau gần 3 năm xa cách. Ông lại cùng lũ trẻ đi câu cá, nhưng thay đổi nhiều, ít trầm tư mà cởi mở hơn. Ông vận động thanh thiếu niên trong làng đến nhà ông học võ và chính ông là thầy dạy. thanh thiếu niên trong làng, nhất là các thanh niên học sinh rất thích đến để học môn võ Thiếu Lâm, kết hợp võ Tây Sơn Bình Định. Những bài "liên hoa quyền" "Mai hoa ngũ lộ quyền" đường roi Bình Định của ông khá thuần thục nhuần nhuyễn.
Khi nghỉ ngơi, ngồi chụm đầu cùng nhau uống nước, các anh thanh niên thường được nghe ông Định, hoặc có khi là người khách bạn của ông Đinh, nói chuyện về nước nhà, về thế giới... hay có khi đọc thơ Tố Hữu qua những bản chép tay...
Máy bay đồng minh đến ném bom quân Nhật đóng ở thị trấn Đức Thọ bom lửa đốt cháy trụi thị trấn và xung quanh. Những người dân bắt đầu chạy nạn đi các làng lên cấn. Phủ đường của Phủ Đức Thọ cũng sơ tán chuyển về đóng cạnh dinh Hoàng Cao Khải tại trung tâm làng Đông Thái.
Một buổi sáng đầu tháng 8 năm 1945, nhân dân trong vùng Tổng Việt Yên thức dậy sớm như thường lệ bắt đầu một ngày sinh hoạt bỗng ngỡ ngàng, xôn xao. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên các cây cao, từ bến Linh cảm xuống thị trấn Đức Thọ, đến chợ Cầu, chợ Tổ. Truyền đơn dán khắp nơi với lời kêu gọi của Việt minh, đứng lên làm cách mạng.
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, mới khoảng 3 giờ chiều, xóm làng bỗng nhiên ồn ào, nhân dân chộn rộn chạy ngược chạy xuôi, rồi dần dần tụ hội lại trước đình làng Đông Thái, nơi thiết lập Phủ đường của tri phủ Đức Thọ. Tiếng ồn ào râm ran, chờ đợi. Mọi người bảo nhau: "Việt minh về". "Việt minh cướp chính quyền"!
Đi trên đê sông La từ phía huyện lỵ Đức Thọ lên, một đoàn người hùng dũng tiến vào cửa dinh Hoàng Cao Khải. Dẫn đầu đoàn là một người cầm cờ đỏ sao vàng dương cao, đi bên cạnh là người chỉ huy, mặc bộ đồ xanh công nhân. Đó là ông Định, người câu cá bên bờ sông La năm nào, với nét mặt nghiêm trang và quắc thước. Đoàn tự vệ vũ trang hăng hái lẫm liệt dù trong tay chỉ có mấy khẩu súng mút cổ lỗ với giáo, mác gậy tre, đòn càn tiến sát đằng sau. Người trong lăng có thể nhận thấy đa số tự vệ là thanh niên thường đến nhà ông Định tập võ trước đây. Đoàn người đến trước cửa đình làng Đông Thái, nơi đang là Phủ đường, thì đứng lại.
Khi đoàn tự vệ vũ trang đã dàn hàng ngang trước cửa đình và nhân dân đã nô nức kéo đến chật đoạn đường và sân đình, thì ông Định quay lại hướng mặt vào quần chúng nhân dân dõng dạc nói to với tiếng nói vang như chuông mà bà con trong làng đã từng biết.
"... Vì sứ mệnh giải phóng dân tộc, vì sứ mệnh độc lập của Tổ quốc Việt Nam... nhân dân ta đã đi theo Việt minh, làm cách mạng lật đổ chính quyền của thực dân phát xít và bọn quan lại nam triều lập chính quyền cách mạng của nhân dân...
... Anh em tự vệ vào bắt tri phủ..."
Tiếng hò reo vang dậy.
Mọi người ào ào, khí thế cực kỳ hưng phấn, xông vào Phủ đường. Viên tri phủ mặt tái mét, dơ hai tay, miệng lắp bắp:
"Chúng tôi xin đầu hàng cách mạng..."
Tri phủ huyện Đức Thọ là Bữu Phủ bị trói và dẫn đi giữa đoàn tự vệ vũ trang và quần chúng nhân dân. Lá cờ đỏ sao vàng treo cao trên cột cờ đình làng Đông Thái, như gợi nhớ mười lăm năm trước là cờ đỏ búa liềm cũng đã tung bay ở đây khi cả làng theo phong trào Xô viết Nghệ tĩnh.
Chính quyền đã về tay nhân dân!
Trong tiếng ồn ào của đám đông, có tiếng bàn tán:
- Ông Định là chỉ huy à?
- Ông Định là uỷ viên quân sự của Uỷ ban khởi nghĩa.
Ngay sau đó ông Định đã cùng đoàn tự vệ vũ trang kéo vào chiến khu Hữu Chế, tổ chức lực lượng vũ trang của tỉnh Hà Tĩnh.
5
Vĩ Thanh.
15 tháng 4 năm 1979 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn về làm việc ở Nghệ Tĩnh. Ông Tổng bí thư về Đức Thọ và làng Tủng Ảnh để thăm nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, đồng chí Trần Phú. Sau khi dâng hương ông đi lên đê sông La. Ông nhìn xuống giòng sông La đang hiền hoà chảy. Chợt ông quay lại nói với mọi người đang hồ hởi cùng đi, trong đó có chủ tịch tỉnh Nghệ Tĩnh và trung tướng Lê Quang Hòa tư lệnh quân khu 4.
- Năm 1940 đi qua Đức Thọ, tôi đã ngủ 2 đêm trên thuyền giữa sông La này. Người đưa tôi ra thuyền ngủ để bảo đảm an toàn và bí mật lúc đó là đồng chí Định. À, anh Định nhà ở gần đây, có còn ở đó nữa không?
Bí thư Huyện uỷ Đức Thọ, Phạm Sự vội vã đáp:
- Báo cáo đồng chí Tổng bí thư, ông Định vẫn ở nhà cũ, ông cũng có mặt ở đây ạ.
- Tôi cần gặp anh Định ngay - Tổng bí thư quay lại nói.
Từ trong đám đông những người dân đi đón Tổng bí thư, ông Định khiêm tốn lễ phép bước theo mấy cán bộ địa phương đi đến trước đồng chí Tổng bí thư.
Đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn ôm chầm lấy người bạn chiến đấu vui vẻ xúc động! Trước đông đảo nhân dân và cán bộ địa phương, cán bộ cũng đi trong đoàn Tổng bí thư Lê Duẩn vui vẻ nói to với mọi người:
"- Khi tôi vào Đảng, anh Định đây là bí thư chi bộ và cũng là bí thư tỉnh uỷ tỉnh Quảng Nam.
Gió núi ngàn hôm nay vẫn thổi mạnh, nhưng bây giờ thì không phải "chỉ có gió mới biết điều bí mật" mà là cả làng, cả xã, cả huyện đều biết!
Nhân ngày quốc khánh năm 1999, tỉnh uỷ Hà tỉnh tổ chức lễ truy điệu tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí Phan Văn Định.
Thành phố Đà Nẵng sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đang chuyển mình thay đổi. Các đường phố đang mở rộng. Khu công nghiệp Hòa Khánh đang phát triển mạnh để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới của Đảng. Tại đây, một đường phố bắt đầu từ quốc lộ số 1 chạy dài ra bãi biển Xuân Thiều được mang tên mới: "Đường Phan Văn Định"
Tên của người câu cá bên bờ sông La sáu mươi năm về trước.
Tháng 6 -2001
Phan Y Nga
* Như cụ Phan Đình Phùng; đ/c Trần Phú
* Lê Xuân Trứ: chiến sĩ cộng sản, quê Hà Tĩnh, cùng hoạt động TNCM ở Hội an. Sau hy sinh ở nhà tù Côn đảo.
* Thêm: là đ/c Cao Hồng Lãnh sao này, phó trưởng ban đối ngoại T.Ư.Đảng
Nội dung bài viết của bạn về sản phẩm: Chú ý: Không chấp nhận định dạng HTML!
Ứng dụng: Kém Tốt
Nhập mã số xác nhận bên dưới: